Đảm bảo tính khách quan và khoa học khi áp thuế nước giải khát có đường

Hoàng Thảo

09/06/2025 20:25

Chưa đủ cơ sở khoa học chứng minh thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế chứng minh nước giải khát có đường là nguyên nhân chính của bệnh thừa cân béo phì, tiểu đường và việc áp thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) đối với nước giải khát có đường hiệu quả trong việc kiểm soát bệnh thừa cân béo phì và tiểu đường.  

Theo thống kê của Bộ Y tế, riêng năm 2020, tỷ lệ thừa cân béo phì (TCBP) khu vực thành thị là 26,8%, nông thôn là 18,3% và miền núi là 6,9%. Theo kết quả Tổng điều tra Dinh dưỡng toàn quốc 2019 – 2020 của Viện dinh dưỡng quốc gia, tỷ lệ trẻ em TCBP tăng gấp 2,2 lần, từ 8,5% năm 2010 lên thành 19,0% năm 2020.

Mặc dù Việt Nam có tốc độ tăng nhanh về số người béo phì trong thời gian gần đây nhưng xét về tỷ lệ dân số thì số người TCBP ở Việt Nam vẫn thấp nhất so với khu vực Đông Nam Á và trên thế giới . Theo số liệu từ Liên đoàn béo phì thế giới năm 2022, tỉ lệ TCBP người trưởng thành tại Việt Nam đứng thứ 200 và trẻ em đứng thứ 137. Tại khu vực Đông Nam Á, tỉ lệ TCBP ở người trưởng thành tại Việt Nam đứng thứ 11, trẻ em đứng thứ 8. Số liệu này cho thấy, tỉ lệ TCBP tại Việt Nam còn thấp, tỉ lệ suy dinh dưỡng, thấp còi, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, miền núi còn cao.

thua-can-beo-phi-pld-1749475540.png
ty-le-thua-can-beo-phi-pld-1749475540.png
lien-doan-beo-phi-the-gioi-pld-1749475540.png

Theo các tài liệu của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Bộ Y tế tại Quyết định số 2892/QĐ-BYT ngày 22/10/2022 đã chỉ ra rằng TCBP do nhiều nguyên nhân khác nhau, bao gồm: (i) chế độ dinh dưỡng không hợp lý, không chỉ đên từ việc tiêu thụ các thực phẩm giàu năng lượng bao gồm các thực phẩm giàu chất béo, chất đạm, đường, muối và không đủ chất xơ; (ii) thiếu hoạt động thể chất, lười vận động; iii) các nguyên nhân di truyền, nội tiết. Nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra mối tương quan giữa TCBP với thời gian tĩnh tại, tuổi tác, trình độ học vấn, môi trường sinh sống làm việc, thời gian ngủ…

Các khảo sát thực tiễn đối với lứa tuổi học đường tại Việt Nam cho thấy không có mối tương quan giữa việc tăng tỷ lệ tiêu thụ nước ngọt với tăng tỷ lệ TCBP. Cụ thể, Báo cáo của Viện Dinh dưỡng Quốc gia về tình trạng dinh dưỡng, khẩu phần ăn, tần suất và thói quen sử dụng thực phẩm của học sinh tiến hành năm 2018 cho thấy tỷ lệ TCBP ở học sinh khu vực thành thị cao hơn nhiều so với học sinh ở khu vực nông thôn (lần lượt là 41,9% và 17,8%) nhưng tỷ lệ tiêu thụ nước ngọt ở mức độ thường xuyên của trẻ em khu vực thành thị lại thấp hơn của trẻ em ở khu vực nông thôn (lần lượt là 16,1% và 21,6%). 

Trong khi đó, ít vận động thể lực và thời gian tĩnh tại nhiều lại có đóng góp đáng kể vào tình trạng gia tăng TCBP ở lứa tuổi học đường. Cũng theo Báo cáo của Viện Dinh dưỡng nêu trên, trẻ em khu vực thành thị có tỷ lệ TCBP cao hơn trẻ em khu vực nông thôn thì cũng là nhóm có hoạt động thể lực ít hơn trẻ em khu vực nông thôn. Nghiên cứu SEANUTS do Viện Dinh dưỡng tham gia thực hiện năm 2011 cũng chỉ ra rằng tỷ lệ trẻ em từ 6 - 11 tuổi ở khu vực thành thị đạt mức khuyến nghị về hoạt động thể lực chỉ là 32,5% trong khi tỷ lệ này ở nông thôn là 59,9%. Thời gian tĩnh tại trong ngày của lứa tuổi học sinh chủ yếu là dành cho mạng xã hội (95,9%); game, máy tính, điện thoại (76,3%); làm máy tính (60,2%).

Theo các chuyên gia y tế, có nhiều nguyên nhân dẫn đến TCBP mà đồ uống có đường không phải là nguyên nhân chính. Các thực phẩm có chứa đường và đồ ngọt nói chung cũng chỉ cung cấp khoảng 3,6% tổng năng lượng đưa vào cơ thể từ thức ăn và đồ uống, trong khi đó nguồn năng lượng chiếm nhiều nhất là ngũ cốc (51,4%), thịt (15,5%), các thực phẩm khác là (22%). 

Nước giải khát có đường không phải là nguồn cung cấp đường và calorie duy nhất và cao nhất trong chế độ ăn uống của người Việt nên nếu ngoài các sản phẩm này thì người tiêu dùng vẫn có thể tiêu thụ đường và calorie với hàm lượng cao hơn từ các sản phẩm khác. Nếu so sánh về mức calories cung cấp giữa các loại thực phẩm thì lượng calo cung cấp từ nước giải khát có đường chỉ khoảng 44 kcal/100g là thấp nhất trong các loại thực phẩm chứa đường. 

Theo kết quả khảo sát từ Viện Dinh dưỡng Quốc gia nêu trên, tỷ lệ học sinh tiêu thụ các sản phẩm có đường khác như bánh kẹo, kem, chè chiếm 51,1% ở khu vực thành thị và 56,4% ở khu vực nông thôn, cao hơn rất nhiều so với nước ngọt (21,6% ở khu vực nông thôn và 16,1% ở khu vực thành thị) nhưng tỷ lệ tiêu thụ nước ngọt ở mức độ thường xuyên của trẻ em khu vực thành thị lại thấp hơn của trẻ em ở khu vực nông thôn (lần lượt là 16,1% và 21,6%). 

Bên cạnh đó, khảo sát về thói quen chọn lựa nước uống của người tiêu dùng thực hiện năm 2018 của Decision Lab thì nếu áp thuế lên nước giải khát thì sẽ có 49% người tiêu dùng  chuyển sang dùng các sản phẩm thay thế là nước uống chế biến tại chỗ có đường, đây là nguồn đồ uống khó kiểm soát về chất lượng và hàm lượng đường và khả năng thu thuế của cơ quan nhà nước từ các nguồn này là không khả thi. 

Theo số liệu trong báo cáo của Bộ Tài chính, mức tiêu thụ đồ uống có đường ở Việt Nam năm 2018 là 50,7 lít/người/năm. Theo số liệu trong báo cáo của Bộ Y tế, năm 2020 Việt Nam tiêu thụ 3,3 tỷ lít nước giải khát, tức là tương đương với khoảng 34 lít/người/năm nếu tính trên số dân là 96 triệu người vào năm 2020. Như vậy, theo số liệu của hai cơ quan trên thì mức độ tiêu thụ đồ uống có đường tại Việt Nam từ năm 2018 đến năm 2020 có chiều hướng giảm. 

So với nhiều quốc gia và khu vực, mức độ tiêu thụ này là khá thấp. Ví dụ, theo báo cáo của Hiệp hội ngành giải khát châu Âu (UNESDA) năm 2019, mức tiêu thụ nước giải khát  bình quân đầu người ở châu Âu là 243,9 lít/ người, tức là gấp gần 4,8 lần so với Việt Nam. Các quốc gia có mức tiêu thụ nước giải khát bình quân đầu người cao nhất ở châu Âu là Đức (336,3 lít/người), Hungary (310,3 lít/ người) và Bỉ (272,4 lít/người). Trong số 26 quốc gia châu Âu có lượng tiêu thụ nước giải khát trên 100 lít/người/năm chỉ có 11 quốc gia áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt với nước giải khát. Đức mặc dù là nước có tỷ lệ tiêu thụ nước giải khát cao nhất châu Âu cũng không áp dụng thuế TTĐB đối với nước giải khát. 

Tại châu Á, nhiều nước cũng có mức tiêu thụ bình quân nước giải khát trên 100 lít/người/năm. Theo số liệu thống kê của Statista năm 2023, đối với nhóm nước giải khát bao gồm đồ uống có ga, đồ uống không có ga, nước trái cây, chè và cafe pha sẵn (không bao gồm nước uống tinh khiết), Nhật Bản là quốc gia có lượng tiêu thụ nhóm nước giải khát này cao nhất trong khu vực với mức dự kiến năm 2023 là 169,28 lít/người/năm. Hàn Quốc cũng là quốc gia có tỷ lệ tiêu thụ nước giải khát ở mức cao, khoảng 96,51 lít/người/ năm (theo số liệu năm 2023) nhưng cũng không áp thuế TTĐB đối với nước giải khát. 

Tại khu vực châu Mỹ La tinh, theo số liệu của Euromonitor công bố năm 2018 cho thấy mức tiêu thụ đồ uống có đường bình quân đầu người hàng ngày ở khu vực này là 252 ml/người/ngày, tương ứng với khoảng  91,98 lít/người/năm. Trong đó Mexico và Chile có mức tiêu thụ đồ uống có đường bình quân lần lượt là 450ml/người/ngày và 384 ml/người/ngày, tương ứng với 164,25 lít/người/năm và 140.16 lít/người/năm. Ở Hoa Kỳ, theo dữ liệu độc quyền từ Tập đoàn Tiếp thị Đồ uống (BMC) mức tiêu thụ nước giải khát năm 2021 khoảng 140,5 lít/ người/ năm.

Với những thông tin trên, có thể thấy, mức tiêu thụ nước giải khát ở Việt Nam không phải là cao so với nhiều quốc gia khác trên thế giới. 

nuoc-giai-khat-co-duong-pld-1749475540.jpg
Đảm bảo tính khách quan và khoa học khi áp thuế nước giải khát có đường.

Một số kinh nghiệm quốc tế cho thấy việc áp thuế TTĐB đối với mặt hàng nước giải khát có đường không hiệu quả đối với mục tiêu ngăn ngừa và giảm TCBP, thậm chí có thể gây ra những tác động không mong muốn hoặc phản tác dụng. Thực tiễn một số nước, sau một thời gian áp dụng thuế TTĐB đối với mặt hàng nước giải khát có đường lại có tỷ lệ TCBP không giảm mà lại tăng qua các năm. Như Chile có thời điểm áp dụng vào năm 2014, giai đoạn 2009 - 2010, tỷ lệ béo phì ở nam và nữ giới lần lượt là 19,2% và 30,7%. Sau khi áp dụng thuế TTĐB đối với nước ngọt, đến giai đoạn 2016 - 2017, tỷ lệ béo phì ở cả nam và nữ giới Chile đều tăng, lần lượt là 30,3% và 38,4%. Một số quốc gia châu Âu như Bỉ áp dụng năm 2016, năm 2014, tỷ lệ béo phì ở nam giới nước này là 13,9% còn ở nữ giới là 14,2%, nhưng đến năm 2019, tỷ lệ này ở nam giới là 17,2% và nữ giới là 15,6%. Hay Mexico cũng áp dụng vào năm 2014, năm 2012, tỷ lệ béo phì ở nam giới là 26,8% còn nữ giới là 37,5%, nhưng đến 2018 – 2019, tỷ lệ này đã tăng lên 30,5% ở nam giới và 40,2% ở nữ giới. 

Một báo cáo của Ủy ban Châu Âu năm 2014 cũng đã chỉ ra điều tương tự khi mà lượng tiêu thụ nước ngọt tại Pháp chỉ giảm 3,3%, trong khi giá sản phẩm đã tăng 5% do thuế. Điều này chứng minh việc thiếu hiệu quả khi sử dụng công cụ thuế để kiểm soát nhóm hàng này. Một số nước đã phải từ bỏ công cụ này sau một thời gian áp dụng vì không có tác động đáng kể lên việc cải thiện sức khoẻ cộng đồng.

Theo báo cáo của WHO, cho đến nay, Đan Mạch và Nauy đã bãi bỏ sắc thuế TTĐB áp dụng với nước giải khát có đường. Chính phủ tuyên bố bãi bỏ thuế này nhằm tạo việc làm và giúp đỡ nền kinh tế địa phương. Nhật Bản không áp dụng thuế TTĐB đối với nước giải khát, nhưng lại là quốc gia có tỷ lệ TCBP thấp nhất trong khu vực và trên thế giới với tỉ lệ TCBP ở người lớn là 4,5%; tỉ lệ TCBP ở trẻ em lần lượt là 3,8 % và 4,1%. Thông qua 02 bộ luật có tên gọi là Shuku Iku và Metabo, Nhật Bản tập trung vào chính sách giáo dục dinh dưỡng và tăng cường vận động. 

Hoàng Thảo