Đại biểu Thái Quỳnh Mai Dung - Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Vĩnh Phúc
Đại biểu Thái Quỳnh Mai Dung đề nghị Ban soạn thảo dự án Luật xem xét lại một cách toàn diện về đề xuất bổ sung mặt hàng nước giải khát có đường theo Tiêu chuẩn Việt Nam có hàm lượng đường trên 5g/100ml vào đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB). Vì hiện nay còn nhiều ý kiến trái chiều từ các cơ quan quản lý Nhà nước, cộng đồng doanh nghiệp, các chuyên gia cũng như người tiêu dùng.
Về tác động sức khỏe, cơ quan soạn thảo đã đưa ra trong Báo cáo đánh giá tác động những số liệu về tỷ lệ thừa cân, béo phì ở trẻ em tăng nhanh trong 10 năm qua. Tuy nhiên, cần xem xét cả bối cảnh tỷ lệ suy dinh dưỡng, thấp còi, nhẹ cân ở trẻ em, đặc biệt ở miền núi nước ta cũng vẫn còn rất cao. Theo số liệu Tổng điều tra dinh dưỡng quốc gia năm 2019-2020, tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi, nhẹ cân ở trẻ em dưới 5 tuổi là 19,6% (cao hơn cả tỷ lệ thừa cân, béo phì) và có sự chênh lệch rất đáng kể giữa các vùng miền nhất là giữa miền núi, nông thôn với thành thị.
Ví dụ, tỷ lệ trẻ em dân tộc thiểu số suy dinh dưỡng, nhẹ cân nhiều hơn gấp 2,5 lần so với trẻ em là người Kinh. Việc tăng thuế đối với nước giải khát có đường có thể sẽ không làm trẻ em ở khu vực thành thị giảm tiêu thụ sản phẩm này vì sự chênh lệch về giá thành trước và sau khi áp thuế so với thu nhập bình quân đầu người ở khu vực thành thị là không đáng kể, nhưng đối với khu vực vùng sâu, vùng xa hay ở khu vực dân tộc thiểu số, việc tăng giá dù không đáng kể cũng sẽ khiến cho trẻ em ở đây vốn đã ít có cơ hội được uống nước giải khát sẽ càng khó tiếp cận các mặt hàng này hơn.
Về tác động đối với thu ngân sách, Báo cáo đánh giá tác động cho thấy, nếu áp thuế TTĐB theo phương án đề xuất 10% bắt đầu từ năm 2026 thì sẽ làm tăng thu ngân sách khoảng 2.400 tỷ đồng năm đầu tiên, nhưng số thu các năm sau sẽ giảm, nhưng báo cáo không cung cấp thông tin về mức độ giảm là bao nhiêu.
Theo Báo cáo đánh giá tác động kinh tế của TTĐB đối với nước giải khát có đường do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) thực hiện và công bố vào tháng 10 vừa qua thì nếu áp mức thuế TTĐB 10% đối với nước giải khát thì thu ngân sách từ năm thứ hai trở đi mỗi năm sẽ giảm khoảng 4.978 tỷ đồng từ thuế gián thu, chưa kể đến mức giảm tương ứng từ thuế trực thu. Ngoài ra, trong Báo cáo cũng chỉ ra rằng, chính sách thuế này sẽ không chỉ tác động trực tiếp lên ngành đồ uống mà còn tác động lan tỏa tới 25 ngành trong nền kinh tế và dẫn đến sụt giảm GDP gần 0,5% GDP, tương ứng 42.570 tỷ đồng. Do vậy, CIEM đề xuất chưa áp dụng thuế TTĐB đối với nước giải khát có đường.
Về kinh nghiệm quốc tế, theo Báo cáo đánh giá tác động của cơ quan soạn thảo, hiện nay đã có ít nhất 107 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới áp dụng thuế TTĐB đối với nước giải khát có đường. Tuy nhiên, một báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) phát hành ngày 5/12/2023 và đang đăng tải trên trang tin của tổ chức này cho biết thêm rằng, một nửa trong số các quốc gia này cũng áp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với cả nước uống, mặc dù nước uống là mặt hàng được Tổ chức Y tế thế giới khuyến khích tiêu dùng. Vì vậy, Tổ chức Y tế thế giới cho rằng, không phải quốc gia nào cũng áp dụng chính sách thuế này vì mục đích sức khỏe mà chỉ đơn thuần là đưa tất cả các loại đồ uống vào diện chịu thuế.
Chính vì vậy, Đại biểu Thái Quỳnh Mai Dung cho rằng, cần nghiên cứu thêm đối với nội dung này để từ đó đề xuất các biện pháp kiểm soát tình trạng thừa cân, béo phì và các bệnh không lây nhiễm khác cho phù hợp. Ví dụ như, có những quốc gia như Ấn Độ, Mexico, Thái Lan, Philippines đã áp thuế TTĐB với đồ uống có đường nhiều năm nhưng tỷ lệ thừa cân, béo phì thì lại vẫn tiếp tục tăng, mặc dù tiêu thụ nước giải khát có đường giảm. Trong khi đó các quốc gia khác như Nhật Bản, Singapore hay Trung Quốc không áp dụng chính sách thuế này thì tỷ lệ thừa cân, béo phì lại được kiểm soát tốt.
Theo bà Dung, công cụ thuế này không hiệu quả trong việc làm thay đổi hành vì người tiêu dùng, đặc biệt là khi các đối tượng tiêu dùng mặt hàng nước giải khát có đường phần lớn là trẻ em. Các cơ quan nên tập trung vào các biện pháp tuyên truyền và giáo dục trong gia đình và trường học để các em thay đổi nhận thức và từ đó thay đổi hành vi tiêu dùng.
Do còn nhiều ý kiến khác nhau về tính hiệu quả cả về sức khỏe và kinh tế của đề xuất bổ sung nước giải khát có đường vào diện chịu TTĐB, theo tinh thần của Chủ tịch Quốc hội là chỉ có những vấn đề “đã chín, đã rõ thì sửa, cái gì chưa rõ thì phải tiếp tục nghiên cứu”, Đại biểu Thái Quỳnh Mai Dung đề nghị cơ quan soạn thảo tiếp tục nghiên cứu thêm về vấn đề này và chưa đưa vào dự thảo mặt hàng còn nhiều tranh cãi này.
Đại biểu Lê Thị Song An – Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Long An
Đại biểu Lê Thị Song An đề nghị Ban soạn thảo xem xét kỹ lưỡng chính sách này, bởi qua nghiên cứu Tờ trình và Báo cáo thẩm tra, đại biểu nhận thấy hiệu quả của việc áp thuế 10% lên nước giải khát có đường trong việc hạn chế, hoặc giảm tỷ lệ béo phì chưa được nghiên cứu toàn diện.
Theo một số nghiên cứu, thực phẩm chứa đường (bao gồm cả đồ uống, bánh kẹo, kem...) cung cấp trung bình 3,6% tổng năng lượng tiêu thụ đưa vào cơ thể. Việc áp thuế này có thể chỉ giảm được một lượng rất nhỏ, khoảng từ 0,1% - 0,2% lượng năng lượng nạp vào cơ thể. Ngoài ra, tỷ lệ béo phì còn có nguyên nhân do sử dụng các thức ăn nhanh, ít vận động của lứa trẻ, chế độ ăn uống, hoạt động thể chất...
Hơn nữa, chính sách thuế này có thể thiếu công bằng khi chỉ nhắm vào các sản phẩm đồ uống đóng chai sẵn, trong khi các loại đồ uống pha chế tại chỗ như cà phê, trà sữa, nước mía, trà chanh... rất khó bị đánh thuế do không thể xác định chính xác hàm lượng đường… Điều này sẽ dẫn đến bất lợi cho các doanh nghiệp sản xuất đồ uống trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp thuần Việt. Trong khi đó, với công nghệ hiện đại và có tiềm năng về tài chính, các tập đoàn nước ngoài có lợi thế về kinh nghiệm và công nghệ trong việc chuyển đổi sang sản xuất đồ uống không đường nhưng vẫn giữ được độ ngọt, trong khi các doanh nghiệp nội địa có thể gặp nhiều khó khăn hơn khi chính sách này được triển khai.
Do đó, Đại biểu Lê Thị Song An đề nghị Ban soạn thảo đánh giá kỹ lưỡng tác động, các biện pháp thực hiện, cũng như lộ trình phù hợp cho chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt đối với đồ uống có đường, đảm bảo tính khả thi và công bằng, đồng thời hỗ trợ sự phát triển của doanh nghiệp trong nước.