Đại ngàn kể chuyện người Rục trong hang đá
Chuyện xưa kể lại rằng, trong đại ngàn của núi rừng Trường Sơn hùng vĩ ở Quảng Bình, có đồng bào Rục sinh sống. Họ là tộc người cuối cùng ở Việt Nam rời khỏi hang đá. Năm 1958, họ được bộ đội tìm được và đưa về hòa nhập cùng cộng đồng. Đồng bào người Rục thường ở hang, hay ở dưới những vòm mái đá lèn hoặc làm trại dưới chân núi, nơi có nước rục hay còn gọi nước trong núi đá vôi hoặc trong lòng đất chảy ra. Vì lẽ đó, các tộc người khác đã gán cho họ cái tên "Rục". Người Rục là bộ phận cư dân tiền Việt Mường hiếm hoi còn lại ở nước ta.
Những ngọn gió Đông Xuân quất những cơn gió lạnh như roi vào da thịt, vào lưng chừng núi, vào những ngọn cây... Tiếng gió rít gào vọng vào sâu thẳm của đại ngàn, tiếng gió như kể câu chuyện xa xưa về một tộc người sống trong hang đá, và họ là tộc người rời hang đá cuối cùng... Trước khi rời hang đá, người Rục vốn sống tách biệt, cuộc sống hoàn toàn dựa vào tự nhiên nên còn giữ nhiều cách sinh hoạt của người tiền sử, cổ xưa. Người Rục không biết đến sự tồn tại của các tộc người khác, không tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Họ không mặc quần áo, chỉ che thân bằng những tấm vỏ cây sơ sài. Người Rục quen sống và leo trèo cây trên các triền núi cao ngất để săn bắt, hái lượm.
Vậy mà, khác xa với hình ảnh nghĩ về một vùng đất, nơi đó có những người rời xa hang đá cuối cùng ở Việt Nam. Trước mắt những bản làng sạch đẹp, tươm tất, điện đường trường trạm đầy đủ. Và câu chuyện đồng bào nơi đây chia sẻ khi được lực lượng chức năng hỗ trợ từ trồng lúa nước, biết cái chữ, biết làm ăn…, trở thành một sự tích và huyền thoại về những đổi thay của người Rục giữa đại ngàn của Trường Sơn hùng vĩ. Đã gần 60 năm rời hang đá, về hòa nhập với cộng đồng nhưng người Rục - Minh Hóa ở Quảng Bình còn nặng lòng với cuộc sống hoang sơ, gắn với tự nhiên, nơi rừng sâu, hang đá. Nhờ có các chiến sĩ biên phòng, người Rục nay đã bắt đầu biết trồng lúa nước, biết sử dụng điện thoại, xe máy, rồi điện sáng cũng về trên bản làng.
Giờ đây, chúng tôi đi trên những bản làng của đồng bào Rục - Minh Hóa, không khí mùa xuân đã tràn ngập khắp bản làng. Bên hiên nhà ai những bông đào đã đơm nụ hoa chúm chím, còn trẻ em rộn ràng khoe áo mới. Bà con tay cày, tay cuốc chuẩn bị xuống ruộng chuẩn bị cho vụ lúa Đông Xuân. Hiện tại đồng bào Rục ở Minh Hóa - Quảng Bình có 3 bản: Ón, Yên Hợp, Mò O Ồ Ồ. Đã chừng ấy năm, khi cán bộ tìm được trong núi rừng đại ngàn Trường Sơn xa xôi, hùng vĩ đồng bào Rục họ đã có những bước thay đổi lớn để ổn định cuộc sống. Chúng tôi đi trên bản làng của người Rục khi điện - đường - trường - trạm đã trở thành hiện thực với 203 hộ/800 nhân khẩu đều sống trong những ngôi nhà mới. Hầu như các gia đình đều có tivi, nhiều nhà dùng quạt điện, những chiếc chiếc xe máy chạy cả ngày lẫn đêm là phương tiện vận chuyển, trao đổi hàng hóa của đồng bào.
Trước đây, khi các bản làng vùng sâu, vùng xa biên giới ở Quảng Bình chưa có điện lưới, đời sống sinh hoạt của người dân gặp nhiều khó khăn. Những năm gần đây, nhờ chủ trương của Đảng và Nhà nước, tỉnh Quảng Bình đã ưu tiên đầu tư kéo điện đến hầu hết các xã vùng sâu, vùng xa, biên giới. Nhờ vậy, đời sống của người dân được cải thiện, ánh sáng văn minh đã về với những bản làng vùng sâu, vùng xa…
Cách đây vài năm, mặc dù đã được Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư và xây dựng làng bản, nhưng cái bụng và cái tay vốn quen với rừng, cách mà họ cầm dao, rìu, nỏ vẫn thuận tay hơn cầm cuốc, xẻng. Bàn chân đi rừng thoăn thoắt và nỗi nhớ rừng vẫn luôn thường trực trong họ. Nhiều người Rục ở Thượng Hóa vẫn chưa quen với cái cuốc, cái cày, bàn chân vẫn chưa quen lội ruộng. Cái bụng vẫn chưa quen ăn cơm gạo tẻ khiến họ không ngần ngại quay về rừng để tìm củ mài và lá cây rừng...
Trước ngày được bộ đội phát hiện và đưa ra khỏi hang đá, người Rục chỉ biết hái rau rừng, ăn cây dại. Cuộc sống của họ chỉ đơn thuần với việc săn bắt, hái lượm, và lấy những vật phẩm có sẵn từ rừng. Trồng trọt với họ là một điều xa lạ. Bộ đội biên phòng phải xuống từng nhà, vận động từng người đi học cách trồng lúa. Những thành công ấy là sự cố gắng không biết mệt mỏi từng ngày, từng tháng của cán bộ, chiến sỹ đồn Biên phòng Cà Xèng. Các anh vẫn động viên nhau cố gắng để không phụ lòng tin của người dân. Cuối cùng, đất không phụ người, bắt đầu cho chút quả ngọt đầu mùa khi người Rục đã được đi học, trẻ em độ tuổi đến trường 100%, bà con đã biết trồng lúa nước…
Cánh đồng lúa nước Rục Làn - Cánh đồng của “lòng dân, ý Đảng”
Những thành công ấy là sự cố gắng không biết mệt mỏi từng ngày, từng tháng của cán bộ, chiến sỹ đồn Biên phòng Cà Xèng. Các anh vẫn động viên nhau cố gắng để quả ngọt đầu mùa khi người Rục đã được đi học, đã biết trồng lúa nước.
Sau khi đưa đồng bào ra khỏi cuộc sống trong hang, bộ đội đã phải phát rẫy, trồng ngô, trồng sắn, làm cho đồng bào xem, chỉ cho mọi người cách chỉa lỗ đất tra hạt. Ruộng rẫy thì rộng nhưng đồng bào sau khi tra hạt xong là để đó mặc cho trời, thú rừng phá hoại, đến mùa chẳng thu được là bao. Năm 2010, chiến sĩ Đồn Biên phòng Cà Xèng, cùng các cơ quan chức năng đóng trên địa bàn đã khảo sát địa hình, đi tìm nguồn nước, xóa đói cho người Rục. Từ đó, dự án trồng cây lúa nước dưới chân núi Rục Làn được đưa vào thử nghiệm.
Ban đầu, các chiến sĩ phải làm tất cả mọi công đoạn, sau đó vận động, cầm tay chỉ việc, hướng dẫn bà con từ quy trình đến cách làm giống, gieo mạ, rồi đến thu hoạch. Sau hơn 10 năm triển khai, với hàng ngàn ngày công giúp dân làm lúa nước, đến nay, các chiến sĩ đã giúp cho bà con nơi đây tự làm chủ được lương thực, không còn phụ thuộc vào trợ cấp gạo của Chính phủ hàng tháng như trước đây. Đến hôm nay, gần 10ha đất rừng hoang hóa đã nhường chỗ cho những cánh đồng lúa cho năng suất trung bình 4 tấn/ha, mang ấm no đến cho bản làng người Rục. Bên cạnh đó, Nhà nước xây cầu đường dẫn vào các bản Ón, Yên Hợp và Mò O Ồ Ồ, nơi có khoảng 200 hộ đồng bào Rục đang sinh sống.
Anh Cao Xuân Long, Bí thư Chi bộ, Trưởng bản Mò O Ồ Ồ (xã Thượng Hóa) luôn được bà con trong bản nhắc đến là người thủ lĩnh trẻ nhiệt huyết trong các phong trào. Sau khi tốt nghiệp THPT, anh Long tạm gác giấc mơ vào đại học để trở về quê lập nghiệp bằng cách trồng trọt, chăn nuôi. Với sự nỗ lực của bản thân, năm 2017, anh được kết nạp vào Đảng, được bà con tín nhiệm bầu làm trưởng bản và năm 2019 bầu làm Bí thư Chi bộ.
Với sức trẻ, lòng nhiệt huyết, anh đã tích cực tuyên truyền vận động bà con phát triển sản xuất, cho con cái đi học. Nhờ đó, trong bản có gần 20 thanh niên đã hoàn thành chương trình THPT, 100% trẻ em trong bản được đi học đúng độ tuổi, riêng người em gái của anh là nữ sinh đầu tiên người Rục thi đỗ đại học năm 2022. Về kinh tế, cả bản Mò O Ồ Ồ trồng được trên 5ha lúa nước 2 vụ, hàng chục ha lúa rẫy, sắn, rau xanh trong vườn nhà; nuôi trên 120 con trâu, bò cùng nhiều gia súc, gia cầm... Trong bản còn có hơn 20 hộ tham gia trồng rừng kinh tế với diện tích khoảng 20ha. Riêng gia đình anh Long đang trồng 3 sào ruộng, 5ha cây keo, nuôi 4 con bò…
Anh Long nói: “Trước đây, bà con dân bản không biết trồng lúa nước, chỉ biết trỉa trên nương rẫy thôi, nhưng nay bà con đã biết làm rồi, cuộc sống ấm no hơn. Chúng tôi vui mừng vì đã trồng được lúa nước. Người dân chúng tôi sẽ không còn đói ăn nữa rồi. Từ nay có gạo, là no cái bụng rồi. Đời cha ông chúng tôi sống trong sống trong hang đá, ăn củ mài, củ sắn, rồi áo quần không có mặc, phải lấy lá cây rừng để che giờ đã có cái cái mặc. Từ nay không lo đói rét nữa.
Thượng tá Nguyễn Thái Dương - Chính Trị Viên Đồn Biên Phòng Cà Xèng cho biết: “Đóng quân trên địa bàn, nhận thấy đời sống đồng bào còn khó khăn nên chúng tôi quyết tâm tìm cách giúp đồng bào thay đổi. "Lúa nước Rục Làn" là một trong những mô hình đã thực sự làm thay đổi nhận thức của đồng bào rõ nét nhất. Câu chuyện về những gian nan, vất vả, rồi địa hình đồi núi, nước ruộng khan hiếm, đặc biệt là hiểu biết của đồng bào về lúa nước còn lạ lẫm khiến những cơ quan chức năng trên địa bàn phải “đau đầu”.
Đồng bào Rục vốn quen săn bắt hái lượm, giờ làm quen với trồng lúa nước là câu chuyện không phải một sớm một chiều có thể thay đổi được. Chúng tôi đã phối hợp tuyên truyền các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước tổ chức tốt các hoạt động ngày "Ngày hội Biên phòng toàn dân”; chương trình "Xuân Biên phòng, ấm lòng dân bản”.
Anh Dương chia sẻ thêm, trước đây vùng đất này đến mùa mưa trở thành “vịnh”, xung quanh là núi và nước lũ bao quanh. Nhờ sự giúp sức kêu gọi của cán bộ Biên Phòng Cà Xèng, cầu được xây dựng với tổng kinh phí đầu tư là 1 tỷ đồng. Tạo điều kiện cho đồng bào. Cây cầu khánh thành sử dụng kịp thời trước mùa mưa bão (2021), trong niềm vui của chính quyền địa phương, cán bộ giáo viên, học sinh và đồng bào thiểu số người Rục ở 3 bản Ón, Yên Hợp, Mò O Ồ Ồ thuộc xã Thượng Hóa, huyện Minh Hóa.
Khu vực xây dựng cầu trước đây thường xuyên bị ngập sâu mỗi khu mưa lũ, chia cắt đồng bào Rục với bên ngoài. Do vậy công trình cầu vượt lũ vừa được xây dựng và đưa vào sử dụng mang ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc đảm bảo an toàn cho người dân đi lại trong mùa mưa lũ.
Hiện tại, đồng bào nơi đây thực hiện tốt đề án "Nâng bước em đến trường", “con nuôi Đồn Biên phòng”, công trình “Ánh sáng vùng biên”, duy trì có hiệu quả mô hình lúa nước tại Rục Làn, mô hình nuôi gà, ngan bán chăn thả. Góp phần xây dựng nông thôn mới, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân, qua đó cũng cố lòng tin với Đảng, Nhà nước, bộ đội biên phòng, xây dựng nền biên phòng toàn dân vững mạnh.
Thêm một niềm vui đối với bà con trong đại ngàn của núi rừng Trường Sơn hùng vĩ, Công ty Oxalic, một trong những công ty du lịch hàng đầu của Quảng Bình đã có những cuộc khảo sát, đã và đang xây dựng tour tuyến đến vùng núi rừng xa xôi này.
Xác định trách nhiệm vì Tổ quốc, vì đồng bào, vì chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia, với động lực là luôn được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, động viên của Đảng ủy, Bộ chỉ huy BĐBP tỉnh Quảng Bình và cấp ủy chính quyền địa phương huyện Minh Hóa cùng tình hình thực tiễn của đồng bào, sự phối hợp hiệu quả của các lực lượng chức năng, CBCS Đồn Biên Phòng Cà Xèng đã đoàn kết, nỗ lực, trách nhiệm, không quản ngại khó khăn, cùng đồng bào biên giới bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn được phụ trách, đem ánh sáng ngày càng văn minh đến bản làng người Rục.
Đặc biệt hơn, đơn vị đã chăm sóc, hỗ trợ, động viên hỗ trợ tiền mặt, vật chất cho 46 cháu học sinh nghèo vượt khó với tổng số tiền 318 triệu đồng (37 cháu trong Đề án Quân đội nâng bước em đến trường, 6 cháu trong Chương trình nâng bước em đến trường; 3 cháu con nuôi đồn biên phòng)
Trong câu chuyện cùng chúng tôi, Thượng tá Nguyễn Thái Dương chia sẻ: “Giờ bà con đã tự giác xuống đồng, cơ bản nắm được quy trình làm lúa nước, biết quý trọng hạt gạo do chính mồ hôi công sức mình bỏ ra, không như trước kia chỉ đợi gạo của Chính phủ cấp về”. Thời gian qua, những lực lượng đóng trên địa bàn vùng biên giới, không chỉ lực lượng Biên phòng, mà Công an, Hải quan cùng các cơ quan chức năng khác luôn kề vai sát cánh cùng bà con các xã vùng biên.
Câu chuyện ánh sáng vùng biên cũng được nhiều cơ quan chức năng quan tâm. “Ánh sáng vùng biên” tại 3 bản Ón, Yên Hợp, Mò O Ồ Ồ của đồng bào Rục được thực hiện. Rồi lớp học dành cho bà con, tuy không có kinh phí hoạt động nhưng những lớp học buổi tối cho người Rục ở Thượng Hóa vẫn thường xuyên được đồn Biên phòng Cà Xèng duy trì để dạy chữ. Lớp học được tổ chức vào các buổi tối, vì ban ngày học sinh còn phải lên rẫy, giờ thì bà con đã biết tính toán làm ăn, đời sống khá hơn trước. Đêm đêm tiếng đánh vần của học sinh cứ vang lên đều đặn giữa núi rừng. Rồi trẻ em ở đây, độ tuổi đến trường đều được đến lớp, không có trẻ bỏ học”.
Từ năm 2002, Chương trình 135 và các dự án khác đã đầu tư hơn 20 tỷ đồng xây dựng đường bê tông, điện chiếu sáng, trạm y tế cho vùng đồng bào Rục. Chương trình 134 cũng đã hỗ trợ xây dựng hàng trăm ngôi nhà ở kiên cố cho đồng bào trị giá gần hai tỷ đồng... Nhờ đó, các bệnh dịch đã được khống chế, số người được đi học, biết chữ ngày càng nhiều. Đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào được nâng lên rõ rệt.
Đi trên những bản làng của người Rục, những chiếc xe máy chạy lướt qua, điện thoại thông minh được nhiều người sử dụng, trẻ em đã biết cái chữ. Mừng cho đồng bào, 60 năm rời xa hang đá, từ bỏ cuộc sống trong hang đá và ở trên cây, đồng bào Rục ở Quảng Bình đã biết đến cái chữ, đã biết trồng lúa nước, đã biết ánh sáng của văn minh... Những thành công ấy là sự cố gắng không biết mệt mỏi từng ngày, từng tháng của cán bộ, chiến sỹ đồn Biên phòng Cà Xèng. Ban đầu, có không ít trở ngại khiến các anh chạnh lòng. Nhưng các anh vẫn động viên nhau cố gắng để không phụ lòng tin của người dân. Cuối cùng, đất không phụ người, bắt đầu cho chút quả ngọt đầu mùa khi người Rục đã được đi học, đã biết trồng lúa nước. “Cái viễn cảnh hòa nhập mà chỉ dăm năm về trước chẳng ai dám nghĩ tới nay gần như hiển hiện”!
Giờ đây, làng bản của người Rục đã định hình giữa núi rừng Trường Sơn hùng vĩ, khi điện bật sáng, làng trở thành phố núi lung linh, huyền ảo trong sương mờ. Đêm trên miền đất của người Rục từng một thời hoang vắng này, chúng tôi hiểu hơn về cuộc chuyển mình vĩ đại mà những lớp người Rục bây giờ đang đi từng bước một. Chúng tôi tin chắc rằng bằng tấm lòng và sự kiên nhẫn của bộ đội biên phòng Cà Xèng, cùng những người tâm huyết với cộng đồng, cuộc hòa nhập của người Rục chắc chắn sẽ thành công. Một mùa xuân mới đang về, chúng tôi tin cho một tương lai tốt đẹp hơn đối với đồng bào Rục.