TS Vũ Đình Ánh – nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu thị trường - giá cả (Bộ Tài chính) nhận định để áp thuế chống bán phá giá (CBPG) đối với đối với HRC cần chứng minh được biên độ phá giá là bao nhiêu cũng như các vấn đề khác liên quan.
Hiện, giá HRC trong nước cao hơn nhập khẩu là 10 - 20 USD/tấn. Tuy nhiên, theo ông Ánh, cần phải bóc tách, đánh giá kỹ về mức chênh lệch.
“Mức chênh lệch 10 - 20 USD/tấn liệu có phải là kết quả của việc bán phá giá không? Hay là vì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước chưa tốt, buộc phải bán giá cao hoặc cũng có thể họ nâng giá để hưởng lợi nhuận lớn?”, ông Ánh đặt vấn đề.
Theo ông Ánh, cần chờ đợi những đánh giá của cơ quan nhà nước đối với các vấn đề kỹ thuật, để xem cái được, cái mất, vì lợi ích chung của các doanh nghiệp nội địa Việt Nam, không chỉ riêng doanh nghiệp sản xuất thép HRC mà còn các doanh nghiệp tiêu thụ mặt hàng này và các bên liên quan.
Luật sư Nguyễn Tiến Lập - Trọng tài viên Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam, Thành viên Văn phòng luật sư NHQuang và Cộng sự cho rằng, việc các doanh nghiệp sản xuất HRC nộp đơn lên Bộ Công Thương yêu cầu điều tra CBPG đối với hàng nhập khẩu là hoàn toàn có cơ sở pháp lý. Nhưng để ra một quyết định thì sẽ phải cân đối lợi ích của doanh nghiệp nộp đơn và thị trường (bao gồm nhiều doanh nghiệp khác và cả người tiêu dùng).
“Đây là vấn đề đau đầu và mâu thuẫn trong các chính sách của WTO. Áp thuế CBPG, là bảo vệ cạnh tranh công bằng. Các quốc gia có quyền bảo hộ sản xuất trong nước. Nhưng tác động phụ là ảnh hưởng đến người tiêu dùng. Đáng lẽ là họ được hưởng sản phẩm với giá thấp hơn. Bên cạnh đó, về lâu dài, thuế CBPG là kích thích các doanh nghiệp trong nước phải đổi mới để giá thành sản xuất hạ xuống để giảm giá bán”, ông Lập nói.
Theo ông, các doanh nghiệp sử dụng HRC có quyền chính đáng nêu lên thiệt hại của mình nếu áp thuế CBPG. Trong trường hợp này, các doanh nghiệp sử dụng quyền được tham vấn và gửi đơn yêu cầu Bộ Công Thương không ban hành quyết định áp thuế CBPG.
Nếu Bộ Công Thương bảo lưu quyết định áp thuế, các doanh nghiệp sử dụng HRC có thể giải quyết bằng con đường toà án. Họ phải chứng minh được tính hy hữu và đặc thù của ngành.
“Nền kinh tế thị trường rất phức tạp, khi Nhà nước bảo vệ đối tượng này có thể gây thiệt hại với đối tượng khác. Những nhà làm chính sách ở thế vô cùng khó để cân đong đo đếm. Hiếm khi có được quyết định hoàn hảo tất cả đều hưởng lợi”, ông Lập nói.
Nhiều doanh nghiệp phản ứng quyết liệt
Trước những thông tin từ CEO của Tập đoàn Hoà Phát, tập thể 09 doanh nghiệp tôn mạ và ống thép Việt Nam gồm Công ty CP Tập đoàn Hoa Sen, Công ty CP Thép TVP, Công ty CP Tôn Đông Á, Công ty CP Thép Nam Kim, Công ty Tôn Phương Nam, Công ty CP Tôn Pomina, Công ty CP Sản xuất Thép Vina One, Công ty CP Sản xuất Kinh doanh Thép Việt Nhật, và Công ty CP Kim khí Nam Hưng đã đồng thuận gửi công văn đến Văn phòng Chính phủ, Bộ Công Thương, Cục Phòng vệ thương mại, Hội Nhà báo Việt Nam, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Hiệp hội Thép Việt Nam với những lập luận phản biện cùng các kiến nghị, đề xuất liên quan đến khả năng khởi xướng điều tra và áp thuế chống bán phá giá đối với HRC nhập khẩu từ Trung Quốc. Công văn này nêu rõ không có căn cứ pháp lý để đề nghị khởi xướng điều tra chống bán phá giá đối với sản phẩm HRC nhập khẩu từ Trung Quốc, đồng thời phân tích chi tiết những hậu quả cực kỳ nặng nề và nghiêm trọng sẽ xảy ra cho ngành thép Việt Nam nói riêng và toàn bộ nền kinh tế - xã hội Việt Nam nói chung nếu Việt Nam quyết định áp thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm HRC nhập khẩu từ Trung Quốc vào Việt Nam.
Theo ông Vũ Văn Thanh - Phó Tổng giám đốc thường trực Tập đoàn Hoa Sen cho biết, nếu việc này được thông qua sẽ gây tác hại nghiêm trọng đến với các doanh nghiệp tôn mạ và ống thép Việt Nam nói riêng và kinh tế xã hội nói chung. Hiện nay, theo báo cáo của Hiệp hội Thép Việt Nam thì tổng nhu cầu thép cán nóng của toàn Việt Nam khoảng từ 11 - 13 triệu tấn.
“Để đáp ứng nhu cầu này, thì hiện nay có 2 nguồn từ doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, 2 doanh nghiệp này chỉ mới có đáp ứng được 3,4 triệu tấn. Phần còn lại là khoảng 8 triệu tấn buộc chúng tôi phải nhập khẩu từ nhiều quốc gia. Nếu giờ thông qua thuế chống bán phá giá sẽ có tác động vô cùng nghiêm trọng…”, ông Thanh cho biết.
Cũng theo vị lãnh đạo này, việc áp thuế CBPG để bảo vệ thị trường nội địa là không sai với một điều kiện là các doanh nghiệp yêu cầu áp thuế phải chứng minh họ đang bị thiệt hại. Nhưng ở đây các doanh nghiệp sản xuất HRC nội địa lại không thiệt hại gì cả mà ngược lại họ có nhiều lợi thế để phát triển. Nếu áp thuế, nhiều doanh nghiệp sử dụng HRC đứng trước nguy cơ phá sản. Biên lợi nhuận sau thuế của các doanh nghiệp sản xuất tôn mạ, ống thép khoảng 2%. Giả sử áp mức thuế CBPG 10%, nguy cơ phá sản là hiện hữu.
CEO Tập đoàn Hòa Phát đã viện dẫn 3 lý do để đề nghị khởi xướng điều tra chống bán phá giá đối với sản phẩm HRC nhập khẩu từ Trung Quốc, bao gồm: 1. Lý do 1: Lượng nhập khẩu HRC từ Trung Quốc vào Việt Nam tăng mạnh. 2. Lý do 2: Giá bán HRC của Trung Quốc giảm từ 618 USD/tấn vào quý 1/2023 xuống còn 557 USD/tấn trong quý 4/2023 có dấu hiệu bán phá giá. 3. Lý do 3: Một số doanh nghiệp Trung Quốc bán HRC vào Việt Nam dưới giá thành, chấp nhận bán lỗ để bán được hàng, cạnh tranh không lành mạnh với các doanh nghiệp Việt Nam. Tập thể 9 doanh nghiệp tôn mạ và ống thép Việt Nam khẳng định rằng 3 lý do nêu trên là không có cơ sở pháp lý cũng như không phù hợp với diễn biến thực tế thị trường để đề nghị khởi xướng điều tra chống bán phá giá sản phẩm HRC nhập khẩu từ Trung Quốc bởi những phân tích như sau: Bác bỏ lý do 1: Theo quy định của Luật Quản lý Ngoại Thương 2017 thì lượng nhập khẩu HRC từ Trung Quốc vào Việt Nam tăng mạnh KHÔNG phải là điều kiện để đề nghị khởi xướng điều tra chống bán phá giá. Bác bỏ lý do 2: Lý do “Giá bán HRC của Trung Quốc giảm từ 618 USD/tấn vào quý 1/2023 xuống còn 557 USD/tấn trong quý 4/2023 có dấu hiệu bán phá giá” làKHÔNG có căn cứ pháp lý để đề nghị khởi xướng điều tra chống bán phá giá. Bác bỏ lý do 3: Lý do “Một số doanh nghiệp Trung Quốc bán HRC vào Việt Nam dưới giá thành, chấp nhận bán lỗ để bán được hàng, cạnh tranh không lành mạnh với các doanh nghiệp Việt Nam” là KHÔNG có căn cứ pháp lý để đề nghị khởi xướng điều tra chống bán phá giá. |