Làm sao để nuôi sống hơn 9 tỷ người vào 2050
Nhân ngày Môi trường thế giới (5/6) CropLife Châu Á đã đưa ra một thông điệp rằng, chỉ có khoa học mới giúp nhân loại thoát khỏi khủng hoảng lương thực trong tương lai cho tương lai. Theo CropLife, hiện nay, chúng ta đang lo lắng hơn bao giờ hết về nguồn gốc thực phẩm tiêu thụ hàng ngày, chúng được gieo trồng như thế nào và có tác động thế nào tới môi trường. Sự bền vững trong các hệ thống thực phẩm đang trở thành một vấn đề được quan tâm và là kỳ vọng xã hội nói chung chứ không chỉ là một lời kêu gọi. Kỳ vọng đó ngày một tăng cao là do quan ngại về tài nguyên thiên nhiên đang ngày một suy kiệt, chúng ta đang tập các chế độ ăn uống và lối sống lành mạnh hơn và sự nhận thức rõ ràng hơn về ảnh hưởng của sản xuất lương thực đối với môi trường xung quanh.
Mức độ nhận thức đó tăng cùng lúc với dân số toàn cầu tăng. Ước tính đến năm 2050, sẽ có hơn 9 tỷ người trên trái đất. Điều này có nghĩa là sản lượng lương thực sẽ cần tăng song song để đáp ứng nhu cầu. Trong báo cáo “Cách thức để Nuôi sống Thế Giới tới năm 2050”, Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO) dự báo rằng để đủ lương thực cho dân số toàn cầu vào năm 2050, tổng sản lượng thực phẩm cần có sẽ phải tăng thêm 70% so với hiện tại.
Thực tế là, để tăng sản lượng lương thực của toàn thế giới lên 70%, thì sản lượng canh tác được tại các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước tại Nam Á và Đông Nam Á sẽ cần phải tăng gần gấp đôi. Và để đạt được mục tiêu đầy tham vọng đó, 80% mức tăng cần thiết sẽ phải tạo ra từ tăng năng suất và cường độ canh tác dày hơn - và chỉ 20% đến từ việc mở rộng diện tích đất nông nghiệp. Có lẽ, công nghệ sẽ là một giải pháp chủ chốt giải quyết các thách thức này.
Bài học từ Covid 19
Đại dịch toàn cầu đã làm trầm trọng thêm những lỗ hổng sẵn có trong hệ thống cung cấp thực phẩm trên khắp châu Á, đồng thời cũng làm lộ ra những lỗ hổng mới. Một ví dụ có thể kể tới là những gì đã xảy ra ở Malaysia.
Khi dịch Covid 19 tấn công Malaysia vào năm 2020, chính phủ đã áp dụng triển khai các quyết định hạn chế di chuyển. Điều này không may đã vô tình dẫn đến sự gián đoạn trong toàn bộ chuỗi cung ứng nông sản - và những hình ảnh đau lòng đã xuất hiện khi rất nhiều nông dân, không còn cách nào khác, phải đổ bỏ trái cây và rau quả vì thiếu phương tiện vận chuyển. Nông dân và ngư dân trên toàn quốc sau đó đã chuyển sang sử dụng mạng xã hội và nền tảng thương mại điện tử để khắc phục các quy định hạn chế di chuyển và nhiều bằng chứng đã cho thấy, công nghệ đang dần bén rễ trong các hoạt động của nông dân.
Khoa học là chìa khoá sống còn của nhân loại
Một giải pháp công nghệ khác có thể giúp chúng ta sản xuất nhiều lương thực theo cách thức bền vững hơn đó là khoa học thực vật.
Những đổi mới về khoa học thực vật tiếp tục cho phép nông dân sản xuất thực phẩm an toàn và bổ dưỡng hơn đồng thời hạn chế bớt ảnh hưởng đến môi trường xung quanh. Đặc biệt, cây trồng công nghệ sinh học (CNSH) đã được phát triển với các đặc tính cải tiến như tăng năng suất, tăng khả năng chống chịu sâu bệnh và / hoặc cải thiện hàm lượng dinh dưỡng hay cho phép hấp thụ cacbon trong đất thông qua các hoạt động như canh tác không cày xới. Các đặc tính CNSH trên các cây trồng chủ lực như ngô, lúa và bông đã giúp tiết kiệm nước và thậm chí vẫn cho ra năng suất tăng trong điều kiện hạn hán. Khi mà nền nông nghiệp truyền thống đang sử dụng khoảng 70% lượng nước sử dụng trên toàn cầu - sự phát triển đó là một bước tiến lớn trong việc bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá này.
Một công cụ khoa học thực vật quan trọng khác giúp chúng ta giải quyết những thách thức toàn cầu đang tồn tại như mất an ninh lương thực, tác động môi trường và biến đổi khí hậu là việc sử dụng có trách nhiệm các sản phẩm thuốc BVTV.
Theo CropLife Châu Á, nông dân dựa vào những sản phẩm này để trồng nhiều lương thực hơn trên diện tích đất ít hơn và nâng cao năng suất trên mỗi hécta. Nếu không có công cụ BVTV, 40% sản lượng lúa và ngô thu hoạch toàn cầu có thể bị mất hàng năm, và tổn thất đối với trái cây và rau quả có thể lên tới 50-90%. Khi được sử dụng đúng cách, thuốc BVTV cũng giúp bảo tồn môi trường. Qua đó, cho phép nông dân sản xuất nhiều cây trồng hơn trên một đơn vị diện tích với ít đất canh tác hơn, do đó giảm nạn phá rừng, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và hạn chế xói mòn đất, cũng như giúp kiểm soát các loài xâm lấn và cỏ dại độc hại, đồng thời giúp nông dân sử dụng nước hiệu quả hơn bằng cách giảm khả năng hút ẩm của cỏ dại.