Bác sĩ Bệnh viện Tâm Anh tham gia can thiệp tim trước chuyên gia quốc tế

Thanh Nga

20/01/2024 18:30

Bác sĩ Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh thực hiện thông tim can thiệp cho hai bệnh nhân tại Hội nghị Tim bẩm sinh lớn thứ 3 thế giới vào ngày 19/1.

h1-1709732766.jpeg
Bác sĩ Phúc (ngoài cùng bên phải) và ê kíp đặt stent cho bệnh nhân nam.

Sau ba năm tạm hoãn do Covid-19, Hội nghị quốc tế “Bệnh tim bẩm sinh và cấu trúc” lần thứ 10 (PDA 2024) được tổ chức tại Việt Nam với chủ đề “Can thiệp ống động mạch từ A đến Z”. Đây là hội nghị lớn thứ ba trên thế giới về can thiệp với sự góp mặt của các chuyên gia hàng đầu tại các nước như Mỹ, châu u, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Việt Nam, Malaysia, Indonesia… tham dự.

Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM là một trong 6 nơi trên thế giới truyền hình trực tiếp hai ca can thiệp tim mạch từ phòng mổ đến hội nghị.

Bệnh nhân nam 24 tuổi, mắc bệnh tim bẩm sinh Tứ chứng Fallot, đã được phẫu thuật sửa chữa hoàn toàn từ khi hai tuổi và đã trải qua nhiều lần thông tim can thiệp điều trị. Cách đây 5 năm, bệnh nhân phát hiện hẹp nhánh động mạch phổi và được đặt stent động mạch phổi trái. Cách đây 3 năm vì hở van động mạch phổi nặng, buồng tim phải giãn nhiều, bệnh nhân đã được thay van động mạch phổi qua thông tim nội soi.

6 tháng gần đây, bệnh nhân vài lần xuất hiện triệu chứng đau ngực không rõ ràng. Khi thăm khám, siêu âm tim nghi ngờ tái hẹp động mạch phổi trái. Kết quả chụp cắt lớp điện toán đa lát cắt tim (MSCT tim) ghi nhận stent động mạch phổi trái bị gãy, gây hẹp lòng động mạch phổi và cần phải can thiệp sớm để đặt lại stent.

BS.CKI Vũ Năng Phúc, Trưởng khoa Tim bẩm sinh, Trung tâm Tim mạch, cho biết: “Gãy stent là biến chứng ít gặp, chỉ xảy ra khoảng 10% trường hợp đặt stent động mạch phổi. Stent gãy có thể gây tái hẹp động mạch phổi trái. Bệnh nhân còn có một van tim sinh học ở phía trước stent gãy. Do đó, thủ thuật can thiệp trở nên phức tạp hơn, có nguy cơ khiến stent cũ di lệch gây thuyên tắc mạch máu, tổn thương van đã đặt”.

Bác sĩ khi thực hiện sẽ luồn một ống thông vào động mạch đùi thông qua một lỗ tiêm nhỏ để đưa dây dẫn và dụng cụ đến động mạch phổi, ở ngay vị trí đoạn stent gãy. “Nếu thủ thuật không khéo, stent gãy sẽ bị bong ngay lập tức và can thiệp thất bại”, bác sĩ Phúc cho biết.

h2-1709732785.jpeg
Ca thủ thuật được truyền trực tiếp từ Bệnh viện Tâm Anh đến hội trường với sự theo dõi của hàng trăm chuyên gia quốc tế.

Sau thủ thuật, bệnh nhân ổn định. Bác sĩ Phúc cho biết nhờ can thiệp ít xâm lấn, đường mổ đưa stent vào nhỏ, bệnh nhân ít chảy máu, ít đau, dự kiến xuất viện sau 1-2 ngày.

Cũng trong sáng nay, bác sĩ Phúc và ê kíp đã đặt stent ống động mạch cho bệnh nhân nữ, 36 tuổi, bị tăng áp phổi tiên phát. Đây là tình trạng các mạch máu nhỏ của phổi thay đổi cấu trúc, trở nên dày và cứng gây ra hẹp lòng mạch tăng dần.

Do đó, tâm thất bên phải khi bơm máu lên phổi phải tăng hoạt động, lâu dần thành tim sẽ dày hơn, buồng tim giãn ra, dẫn đến suy tim phải. Trường hợp này phát hiện tăng áp phổi gần 20 năm, tình trạng tim mạch nặng dần gây khó thở khi đi lại, gắng sức nhẹ, mệt và khó thở cả khi vệ sinh cá nhân. Chị còn bị ngất 4 lần trong 6 tháng nay, thường sau khi đi từ giường vào nhà tắm.

Khám tại Bệnh viện Tâm Anh, bác sĩ thực hiện thêm các trắc nghiệm đánh giá loại trừ các nguyên nhân khác gây ngất, cũng như xác định tình trạng tăng áp phổi nặng biến chứng suy tim phải.

Trường hợp của bệnh nhân này khá đặc biệt, vì còn một ống động mạch nhỏ kèm theo. Trong thời gian gần đây, nhiều khuyến cáo điều trị can thiệp nhằm tăng sống còn cho bệnh nhân tăng áp phổi nặng là thực hiện “Pott’s shunt – tạo ống nối từ động mạch chủ sang động mạch phổi”.

Trước đây, khi chưa có thông tim, người bệnh phải phẫu thuật để duy trì thông nối Pott’s này. Ống động mạch vốn dĩ là một cấu trúc mạch máu đặc biệt nối giữa động mạch chủ và động mạch phổi. Trong thời kỳ bào thai, ống nối giúp đưa máu từ mẹ sang thai nhi. Sau khi sinh ra, dưới ảnh hưởng của nhiều yếu tố, ống động mạch sẽ nhỏ dần và bít hẳn.

Nếu sau khi sinh mà ống động mạch không tự nhiên đóng lại, gọi là tật tim bẩm sinh còn ống động mạch. Tuy nhiên, với các trường hợp tim bẩm sinh còn ống động mạch khác cần phải bít ống động mạch lại để tái tạo lại cấu trúc tim bình thường thì ở bệnh nhân này, ống động mạch lại là một cấu trúc may mắn còn lại kèm theo.

Như đã nói ở trên, tăng áp phổi nặng khiến lưu lượng máu lên phổi giảm, từ đó giảm lưu lượng máu về tim khiến bệnh nhân mệt vừa do giảm cung lượng tim, vừa kèm với tình trạng suy tim phải vì tăng áp phổi.

Theo bác sĩ Phúc, không có thuốc điều trị suy tim phải đặc hiệu. Đồng thời, tiên lượng sống còn sau 5 năm đối với tăng áp phổi tiên phát không điều trị là rất cao, vào khoảng 50%. Tỷ lệ tử vong, đột tử cũng sẽ tăng cao lên đến 20% nếu phải thực hiện gây mê toàn thân.

Bác sĩ đánh giá, bệnh nhân này may mắn có một ống động mạch rất nhỏ. Ê kíp gây tê tại chỗ, đồng thời nong và đặt stent vào để tạo luồng thông nối giữa động mạch chủ và động mạch phổi. Nhờ đó, sau này, khi áp lực phổi tiến triển nặng, tăng cao, máu sẽ đi từ tim phải qua tim trái, giúp tăng cung lượng tim, làm chậm quá trình suy tim. Từ đó, cải thiện đáng kể chất lượng cuộc sống của người bệnh.

 

Trong quá trình thực hiện, bác sĩ Phúc cùng các cộng sự vừa tương tác, trao đổi với các thành viên chủ tọa và bác sĩ tham dự. Tại hội trường chính, hàng trăm chuyên gia trong nước và quốc tế dõi theo thao tác của các bác sĩ và thảo luận.

Hai ca can thiệp đặt stent phức tạp diễn ra thành công. Sức khỏe bệnh nhân ổn định, dự kiến xuất viện trong 1-2 ngày tới.

Giáo sư Kevin Patrick Walsh, chuyên gia Tim mạch Nhi từ Ireland nhận xét, đây là hai trường hợp phức tạp trong bệnh lý tim bẩm sinh ở người lớn. Một trường hợp là vấn đề của các bệnh nhân tim bẩm sinh dù đã phẫu thuật sửa chữa hoàn toàn vẫn còn phải đối diện. Trong tương lai, chúng ta sẽ có thêm rất nhiều bệnh nhân đã mổ tứ chứng Fallot còn hẹp nhánh động mạch phổi, tái hẹp nhánh động mạch phổi; cũng như các bệnh nhân hở van động mạch phổi nặng phải thay van động mạch phổi qua da.

Trong khi đó, tăng áp phổi hiện tại vẫn là bệnh lý dù hiếm gặp nhưng tiên lượng tử vong cao, phương pháp điều trị hiện tại còn nhiều hạn chế, nhất là khi bệnh nhân có dấu hiệu suy tim, có triệu chứng tiên lượng nặng (như là ngất). Sự phát triển của tim mạch can thiệp trong thời gian gần đây đã giúp các bệnh nhân này có thể thực hiện các đường mổ nhỏ, ít đau, ít chảy máu, thời gian nằm viện ngắn và hồi phục nhanh, đồng thời mở ra cơ hội, tăng tỷ lệ sống còn, giảm triệu chứng suy tim cho người bệnh.

Hội nghị này với các trường hợp kể trên là điển hình minh họa rất tốt các vấn đề trong bệnh tim bẩm sinh người lớn. Đây là cơ hội giúp các bác sĩ tham dự có thể chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm qua phần thảo luận tại hội nghị.

“Ê kíp phối hợp rất tốt, thao tác thành thục, tạo ra sự khác biệt lớn trong việc thực hiện thủ thuật”, Giáo sư Kevin Patrick Walsh nói.

Thanh Nga