Trưởng thành số của ngân hàng thương mại ảnh hưởng trực tiếp đến vốn hóa của nó, còn hiệu quả hoạt động thì giúp chi phí ít hơn, vì vậy bảng cân đối kế toán lành mạnh sẽ phải trở thành nguồn tăng trưởng doanh thu chính. Có ba mức trưởng thành số của các ngân hàng thương mại: theo thống kê thế giới năm 2019, 50% nói chung chưa bắt đầu chuyển đổi, 38% thể hiện mức độ tích cực (họ đang trên đường chuyển đổi từ sâu nhộng thành con bướm). Cuối cùng, 12% có trọng tâm số rõ ràng, tức là họ hiểu biết, biết làm và thực hành. Nhưng hiện nay nhìn chung thì chưa có một ngân hàng truyền thống nào trở thành ngân hàng số 100% cả, mặc dù nhiều trong số họ thì "cánh bướm" đã hiển hiện.
Trưởng thành số của các ngân hàng thương mại có sự khác biệt rõ rệt tùy thuộc vào điểm xuất phát, mức độ tham vọng, khu vực hoạt động và loại hình sản phẩm/dịch vụ. Tuy nhiên, có thể chỉ ra những tiêu chí để đánh giá, dựa trên trải nghiệm của những định chế tài chính-ngân hàng lớn nhất trên thế giới.
Ưu tiên của mô hình "mobile first": ngân hàng thương mại hiện đại có nhiều kênh tương tác với khách hàng, bao gồm các điểm giao dịch, máy ATM, call-center và những nhà quản lý cá nhân. Cái gì là trọng tâm? Ở ngân hàng số - đó thường hơn cả là kênh di động - kênh chính yếu, những thứ khác sẽ trợ giúp duy trì liên lạc trọn vẹn. Đồng thời, không có sự cạnh tranh nào: điện thoại thông minh là ở trung tâm của mô hình giao tiếp với khách hàng, còn các kênh khác là bổ trợ.
Tự động hóa các hoạt động thủ công tại back-office: từ quản lý rủi ro đến dịch vụ khách hàng - mọi quy trình theo mặc định phải được xây dựng trên những hệ thống dữ liệu và phân tích cũng như sử dụng các khả năng hiện đại của trí tuệ nhân tạo (AI). Với cách thức như vậy, ngân hàng thương mại có thể phục vụ trọn vẹn đồng thời hàng ngàn khách hàng cá nhân và doanh nghiệp.
Độ mở của ngân hàng: Các ngân hàng thương mại dẫn đầu đang suy nghĩ xem liệu họ có thể đưa nền tảng số của mình ra thị trường mở thông qua kiến trúc vi dịch vụ (microservices) và API (Application Programming Interface). Có chuyên gia quốc tế từng nói: "Thị trường dịch vụ tài chính đang chuyển đổi từ đĩa mì spaghetti sang mì lasagna, nơi mà các NHTM sẽ lựa chọn họ muốn làm việc ở tầng lớp nào, cũng như ai sở hữu và vận hành loại nước sốt kết nối mọi thứ. Hợp tác đang thay thế cạnh tranh".
Mở rộng mô hình truyền thống: ngân hàng số xem xét các dòng doanh thu tiềm năng thậm chí vượt ra khỏi các dịch vụ thông thường: từ bảo hiểm đến các dịch vụ phi tài chính, cùng nhau hoạt động vì lợi ích tài chính của khách hàng. Tỉ trọng của các dịch vụ như vậy trong danh mục nghiệp vụ của các ngân hàng trong tương lai sẽ tăng lên, trong khi các dòng thu nhập truyền thống từ lãi và hoa hồng sẽ giảm đi nhiều.
Ngân hàng số - ngân hàng lấy dữ liệu làm động lực phát triển: Ngân hàng số biết cách làm việc với dữ liệu lớn và sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (Artifical Intelligence) và học máy (Machine Learning) để gia tăng lợi nhuận. Các nhà phân tích hay so sánh quyền truy cập tới dữ liệu của các ngân hàng với việc phát hiện ra mỏ dầu lửa. Nhưng các ngân hàng tốt nhất không chỉ biết nơi nào cần khoan, mà còn biết cách cải thiện và sử dụng tối ưu nhiên liệu từ những giếng dầu này.
Điện toán đám mây ở nền tảng của cơ sở hạ tầng: Các đám mây công cộng (public cloud) đảm bảo hiện thực hóa hiệu quả và khả năng mở rộng nhanh chóng các dịch vụ ngân hàng số. Do đó, các ngân hàng thương mại với mức độ trưởng thành số cao liên tục đặt ra câu hỏi về các đám mây công cộng: "Tại sao chúng ta lại không dùng nhỉ?"
Tính linh hoạt: Các ngân hàng số đang trở nên Agile, tức là họ đang đưa vào văn hóa tạo ra các sản phẩm/dịch vụ và việc quản lý những thay đổi một cách linh hoạt. Đây là cách mà dịch vụ có sức sống tối ưu có thể nhanh chóng gia nhập thị trường và được tinh chỉnh dựa trên phản hồi của khách hàng. Tính linh hoạt đảm bảo cách tiếp cận tương tác xuyên suốt và hỗ trợ quá trình chuyển đổi của các ngân hàng.
Các sáng tân ở trung tâm của ngân hàng: Mười năm tới, các ngân hàng số tốt nhất sẽ có bảng cân đối kế toán mạnh, nguồn vốn ổn định và quản lý rủi ro xuất sắc. Nhưng đây không phải là nói về việc thay thế hẳn mô hình truyền thống, mà là về việc phát triển nó và gia tăng hiệu quả hoạt động thông qua các sáng tân (innovations).
Hợp tác trong ngành fintech: các ngân hàng số đang xây dựng hệ sinh thái đối tác của mình. Chỉ ngân hàng thương mại nào biết cách làm việc với hệ sinh thái, sàng lọc, làm rõ và tiền tệ hóa những ý tưởng tốt thì mới sẽ có thể ở top tiên phong trong ngành.
Nhân sự hướng về công nghệ: mọi quy trình này chỉ có thể hoạt động nếu nhân sự ngân hàng có những chuyên viên tài năng hỗ trợ thay đổi. Càng ngày các ngân hàng thương mại hiện đại càng loại bỏ vị trí CIO và bộ phận công nghệ thông tin chuyên trách, bởi vì toàn bộ cấu trúc của họ đang trở thành số hết thì mọi nhân sự đều cũng sẽ là các chuyên gia công nghệ thông tin.
Lãnh đạo của các ngân hàng thương mại toàn cầu ngày nay có rất nhiều điểm chung: đó là DNA của ngân hàng đang trở thành số hoàn toàn. Các ngân hàng thương mại truyền thống trong năm 2015-2018 đã đầu tư khoảng 1.000 tỉ USD vào công nghệ thông tin, phần lớn số tiền này được chi cho những công nghệ có tiềm năng chuyển đổi - nền tảng đám mây và AI. Đây là những khoản tiền khổng lồ, và điều quan trọng là những ai đầu tư chúng thì cốt yếu đã hiểu được tiềm năng thương mại của việc chuyển đổi. Đánh giá trưởng thành số của một ngân hàng thương mại trở thành điểm ra quyết định đối với các thành viên HĐQT và các bên liên quan khác. Trên con đường từ sâu nhộng thành con bướm, các ngân hàng thương mại truyền thống cần phải thiết lập "bảng cân đối" quan trọng giữa “run the bank" (vận hành ngân hàng) và “change the bank" (thay đổi ngân hàng): quản lý những gì đã được tạo ra và các thay đổi. Ở mỗi nơi thì “bảng cân đối” này sẽ khác nhau. Nhưng chính sự trưởng thành số sẽ là thứ phân biệt những ai chiến thắng trong tương lai về fintech với những kẻ thua cuộc.