Thế kỷ châu Á lâm nguy (Phần 2)

caodung

08/06/2020 09:52

Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long cảnh báo về hiểm họa của sự đối đầu Mỹ - Trung, dẫn tới tiêu tan triển vọng Thế kỷ châu Á trong bài viết đăng trên tờ Foreign Affairs ngày 4.6.

Sau đây là phần cuối của bài viết Thế kỷ châu Á lâm nguy của Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long:

Động lực ở châu Á - Thái Bình Dương

Những động lực thúc đẩy chính sách đối đầu hoặc hợp tác giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ xảy ra trên toàn thế giới, nhưng đấu trường quan trọng sẽ là khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Mỹ luôn có lợi ích quốc gia quan trọng trong khu vực này, từng đổ máu và của cải vào Chiến tranh Thái Bình Dương cũng như tham chiến ở Hàn Quốc và Việt Nam.

Các chính sách cởi mở, hào phóng của Mỹ mang lại lợi ích to lớn cho châu Á - Thái Bình Dương bắt nguồn từ những lý tưởng chính trị bén rễ rất sâu của Mỹ và hình ảnh quốc gia trên trường quốc tế như một “thành phố trên đồi” và “ánh sáng soi đường cho các quốc gia”, cũng như từ sự cân nhắc lợi ích cho chính mình. Một châu Á - Thái Bình Dương ổn định và thịnh vượng trước tiên đem đến các thị trường lớn và cơ sở sản xuất quan trọng cho các doanh nghiệp Mỹ. Không có gì ngạc nhiên, một số đồng minh trung thành nhất của Mỹ nằm ở châu Á, chẳng hạn như Úc, Nhật Bản và Hàn Quốc, và một số đối tác lâu dài cũng vậy, chẳng hạn như Singapore.

Trung Quốc cũng có lợi ích sống còn trong khu vực. Ở Đông Bắc Á, Chiến tranh Trung - Nhật lần thứ II và Nội chiến Triều Tiên vẫn còn ảnh hưởng. Ở Đông Nam Á, Trung Quốc nhận ra nguồn năng lượng và nguyên liệu thô, các đối tác kinh tế và các tuyến giao thông quan trọng trên biển. Mỹ cũng cho rằng các điểm tắc nghẽn ở eo biển Malacca và Biển Đông phải được lưu thông để bảo vệ an ninh năng lượng của Trung Quốc. Nhưng một điểm khác biệt quan trọng với Mỹ là Trung Quốc coi châu Á - Thái Bình Dương là lãnh thổ “cận biên” của mình, và do đó, là khu vực tối mật thiết để bảo vệ an ninh quốc gia.

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nói rằng Thái Bình Dương đủ lớn để chứa cả Mỹ và Trung Quốc, nhưng ông cũng nói rằng an ninh châu Á nên để người châu Á lo liệu. Điều này dấy lên một câu hỏi: Liệu ông Tập có nghĩ rằng Thái Bình Dương đủ lớn để Mỹ và Trung Quốc cùng tồn tại hòa bình với vai trò bạn bè và đối tác, hay khu vực này đủ lớn để phân chia hai cường quốc thành hai phạm vi đối đầu? Singapore và các nước châu Á - Thái Bình Dương đã có câu trả lời rõ ràng. Mặc dù các nước này không thể tác động mấy đến diễn biến Mỹ - Trung, họ hy vọng sẽ không bị buộc phải lựa chọn giữa Mỹ và Trung Quốc.

Sự hiện diện an ninh của Mỹ vẫn còn quan trọng đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Không có Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc buộc phải dự tính phát triển vũ khí hạt nhân; cả hai nước này đều ở ngay trước ngưỡng cửa hạt nhân và chủ đề vũ khí hạt nhân thường xuyên được đề cập công khai, đặc biệt ở Triều Tiên. Những diễn biến như vậy rất may vẫn chỉ là giả thuyết, nhưng dù vậy vẫn không hề có lợi cho sự ổn định ở Đông Bắc Á cũng như các nỗ lực từ bỏ vũ khí hạt nhân trên toàn cầu.

Ở Đông Nam Á, Hạm đội 7 Hoa Kỳ góp phần vào an ninh khu vực kể từ Thế chiến thứ II, đảm bảo các tuyến đường biển an toàn và thông thoáng, kích hoạt thương mại và tăng trưởng kinh tế. Bất chấp sức mạnh quân sự ngày càng tăng, Trung Quốc sẽ không thể đảm nhận vai trò bảo hộ an ninh này của Mỹ. Không giống như Mỹ, Trung Quốc đang đối mặt các vụ kiện về lãnh thổ trên đất liền và ở Biển Đông với một số quốc gia trong khu vực, những nước luôn xem sự hiện diện quân sự của Trung Quốc là thù địch.

Singapore là quốc gia Đông Nam Á duy nhất có dân số phần lớn là người gốc Hoa. Trên thực tế, đây là quốc gia có chủ quyền duy nhất trên thế giới có nhân khẩu học như vậy bên cạnh Trung Quốc. Tuy vậy, Singapore nỗ lực rất nhiều để xây dựng tính đa sắc tộc và mãi đến năm 1990 mới thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Dĩ  nhiên, Singapore và tất cả các nước châu Á khác muốn xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với Trung Quốc. Họ hy vọng có thể tận hưởng sự thiện chí và hỗ trợ từ nước lớn Trung Quốc và hợp tác cùng phát triển. Chuỗi cung ứng toàn cầu từ máy bay, điện thoại di động hay khẩu trang y tế, đều kết nối Trung Quốc với các nước châu Á khác. Quy mô dân số và kinh tế khổng lồ của Trung Quốc giúp nước này trở thành đối tác thương mại lớn nhất của hầu hết các quốc gia châu Á khác, bao gồm tất cả các nước đồng minh hiệp ước của Mỹ trong khu vực, cũng như Singapore và gần như mọi quốc gia ASEAN khác.

Sẽ rất khó khăn, gần như không thể, để Mỹ thay thế Trung Quốc trở thành nhà cung cấp chính của thế giới, và Mỹ cũng khó lòng làm được điều tương tự nếu không có thị trường Trung Quốc, nước nhập khẩu hàng hóa lớn thứ ba của Mỹ, sau Canada và Mexico. Nhưng Trung Quốc cũng không thể thay thế vai trò kinh tế của Mỹ tại châu Á. Hệ thống tài chính toàn cầu phụ thuộc rất nhiều vào các tổ chức tài chính của Mỹ và đồng Nhân dân tệ sẽ không thể nhanh chóng thay thế được đồng đô la Mỹ trở thành đồng tiền dự trữ thế giới. Mặc dù các nước châu Á khác xuất khẩu sang Trung Quốc nhiều hơn so với Mỹ, các tập đoàn đa quốc gia của Mỹ vẫn là nguồn đầu tư ngoại quốc lớn nhất ở nhiều nước châu Á - Thái Bình Dương, bao gồm cả Singapore. Các công ty lớn của Trung Quốc đang bắt đầu đầu tư ra nước ngoài, nhưng sẽ phải mất nhiều năm để Trung Quốc xây dựng được các tập đoàn đa quốc gia có cùng quy mô và cấu trúc như các công ty có trụ sở tại Mỹ, những công ty đang kết nối các chuỗi sản xuất toàn cầu lại với nhau, kết nối châu Á với nền kinh tế toàn cầu và tạo ra hàng triệu việc làm.

Vì những lý do này, các nước châu Á - Thái Bình Dương không muốn bị buộc phải lựa chọn giữa Mỹ và Trung Quốc. Họ muốn vun đắp mối quan hệ tốt đẹp với cả hai bên. Họ không trả được cái giá nếu làm ngơ Trung Quốc, và các nước châu Á khác sẽ cố gắng hết sức để tránh bất kỳ tranh chấp nào chi phối mối quan hệ toàn diện của mình với Bắc Kinh. Đồng thời, những quốc gia châu Á này cũng coi Mỹ là một thế lực với lợi ích sống còn trong khu vực. So với các nước khác, Mỹ công khai ủng hộ khu vực này nhiều hơn, khi Tổng thống Mỹ Barack Obama tuyên bố ý định tái cân bằng chính sách đối ngoại của Mỹ đối với châu Á. Họ lấy làm an ủi rằng mặc dù chính quyền Trump đề cập vấn đề bạn bè và đồng minh phải chia sẻ chi phí và gánh nặng với Mỹ, nhưng cũng đưa ra chiến lược cho khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương và tuyên bố ý định xây dựng Bộ chỉ huy quân sự Ấn Độ - Thái Bình Dương.

Tuy nhiên, những quốc gia châu Á này cũng nhận ra rằng Mỹ là một siêu cường toàn cầu, với những mối bận tâm sâu rộng và những ưu tiên cấp bách ở nhiều khu vực khác. Họ nhận ra thực tế rằng nếu căng thẳng Mỹ - Trung gia tăng, hoặc trở nên tồi tệ hơn nếu xung đột xảy ra, họ không thể nghiễm nhiên nhận hỗ trợ của Mỹ. Họ sẽ làm phần việc của mình để bảo vệ đất nước và lợi ích quốc gia. Họ cũng hy vọng rằng Mỹ hiểu rằng nếu các quốc gia châu Á khác thúc đẩy quan hệ với Trung Quốc, điều đó không nhất thiết có nghĩa là đứng về Trung Quốc chống lại Mỹ. (Và tất nhiên, các quốc gia châu Á này cũng hy vọng có được sự hiểu biết tương tự từ Trung Quốc, nếu họ củng cố mối quan hệ với Mỹ.)

Toàn bộ cục diện khu vực

Mỹ và Trung Quốc không phải là những nước lớn duy nhất có ảnh hưởng quan trọng trong khu vực. Cụ thể, Nhật Bản cũng có nhiều đóng góp lớn nhờ quy mô và cấu trúc của nền kinh tế. Dưới thời Thủ tướng Shinzo Abe, Nhật Bản đóng góp tích cực hơn trước. Chẳng hạn, sau khi Mỹ rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) năm 2017, Nhật Bản là nước dấn bước. Nhật thúc đẩy 11 thành viên còn lại hoàn thành Hiệp định toàn diện và tiến bộ về quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định tập hợp lại các nước phát triển và đang phát triển ở cả hai bên bờ Thái Bình Dương và là một bước tiến tới thương mại tự do ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Ấn Độ cũng đem đến nhiều ảnh hưởng có lợi cho khu vực. Dưới thời Thủ tướng Narendra Modi, Ấn Độ tuyên bố thay đổi chiến lược thông qua Chính sách Hành động hướng Đông và các quốc gia khác cũng mong chờ chính sách này được đưa vào thực hiện. Hội nghị thượng đỉnh Đông Á bao gồm cả Ấn Độ vì các thành viên khác hy vọng rằng khi nền kinh tế Ấn Độ phát triển, khu vực sẽ đạt được nhiều hợp tác giá trị hơn. Ấn Độ cũng là một trong những quốc gia đầu tiên đàm phán để hình thành Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), một hiệp định thương mại tự do được đề xuất nhằm mục đích hợp nhất tất cả các nền kinh tế lớn ở châu Á - Thái Bình Dương, tương tự như Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ (hiện nay là Hiệp định Mỹ-Mexico-Canada). Sau các cuộc đàm phán mở rộng, Ấn Độ năm 2019 quyết định không tham gia RCEP; 15 quốc gia thành viên còn lại vẫn đang cố gắng đạt được thỏa thuận, mặc dù không còn thành viên quan trọng là Ấn Độ.

Như hầu hết các nước châu Á đã nhận ra, giá trị của các thỏa thuận như vậy vượt xa lợi ích kinh tế. Đó chính là những nền tảng cho phép các quốc gia châu Á - Thái Bình Dương hợp tác với nhau, góp phần vào sự phát triển của lẫn nhau và cùng nhau định hình cấu trúc khu vực và các quy tắc chi phối cấu trúc đó. Để đạt được điều đó, cấu trúc khu vực phải cởi mở và toàn diện. Các nước không nên, dù cố ý hay vô tình, ngăn chặn sự tham gia của bất kỳ bên nào, làm suy yếu các thỏa thuận hợp tác hiện có, tạo ra các khối thù địch hoặc buộc các quốc gia phải chọn phe phái. Đây là lý do tại sao các thành viên CPTPP để mở cửa cho Mỹ để gia nhập một lần nữa và tại sao các quốc gia đang cố gắng thành lập RCEP vẫn hy vọng một ngày nào đó Ấn Độ sẽ tham gia vào.

Đây cũng là cơ sở để các nước châu Á - Thái Bình Dương ủng hộ nhiều sáng kiến ​​hợp tác khu vực khác nhau, dù do Nhật Bản, Mỹ hay các quốc gia khác đề xuất, cũng như Sáng kiến ​​Vành đai và Con đường (BRI) của Trung Quốc. Nhiều quốc gia châu Á khác coi việc ủng hộ BRI là hành động mang tính xây dựng nhằm thích ứng với ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc trong khu vực. Nếu được thực hiện và kiểm soát tốt về tài chính, các dự án BRI có thể tăng cường hợp tác khu vực và hợp tác đa phương, cũng như giải quyết vấn đề cấp thiết về cơ sở hạ tầng và kết nối giao thông ở nhiều nước đang phát triển. Một số dự án của BRI bị chỉ trích vì thiếu tính minh bạch hoặc khả thi, nhưng không có lý do gì để tin rằng tất cả các dự án BRI sẽ đem đến gánh nặng tài chính không bền vững cho các quốc gia hay ngăn cản các nước này liên kết với các nền kinh tế lớn khác. Hậu quả như vậy cũng chẳng mang lại lợi ích gì cho Trung Quốc vì sẽ làm suy yếu vị thế và tầm ảnh hưởng của nước này.

Phát triển các thỏa thuận khu vực mới không có nghĩa là từ bỏ hoặc gạt sang một bên các thể chế đa phương hiện có. Các thỏa thuận và thể chế đa phương phải mất nhiều công sức mới đạt được sẽ tiếp tục mang đến cho tất cả các quốc gia, đặc biệt là các nước nhỏ một khuôn khổ để làm việc cùng nhau và thúc đẩy lợi ích tập thể. Nhưng nhiều thể chế đa phương hiện tại đang rất cần cải cách: chúng không còn hiệu quả do tình hình kinh tế và chiến lược thực tại. Chẳng hạn, kể từ khi kết thúc Vòng đàm phán thương mại Uruguay năm 1994, WTO gặp khó khăn trong việc đạt được các hiệp định thương mại ý nghĩa, bởi vì bất kỳ thỏa thuận nào cũng cần có sự đồng thuận từ 164 thành viên, vốn có lợi ích và triết lý kinh tế rất khác nhau. Và kể từ năm ngoái, Cơ quan phúc thẩm của WTO bị tê liệt do thiếu một vị thẩm phán. Đây là một mất mát cho tất cả các quốc gia, những nước nên có hành động mang tính xây dựng theo hướng cải cách bộ máy hợp tác thay vì làm giảm hiệu quả hoặc gạt bỏ chúng hoàn toàn.

Niềm hy vọng của các quốc gia châu Á ngoài Trung Quốc

Các lựa chọn chiến lược mà Mỹ và Trung Quốc đưa ra sẽ định hình cục diện của trật tự toàn cầu đang hình thành. Việc các cường quốc cạnh tranh là tất yếu. Nhưng hợp tác mới thực sự là bài đánh giá khả năng lãnh đạo quốc gia, đồng thời quyết định sự tiến bộ của con người về các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, phổ biến hạt nhân và lây lan các bệnh truyền nhiễm hay không.

Đại dịch COVID-19 là một lời nhắc nhở rõ ràng về tầm quan trọng của việc hợp tác giữa các quốc gia. Bệnh dịch không phân biệt biên giới, và hợp tác quốc tế là hết sức cần thiết để kiểm soát đại dịch và giảm thiểu thiệt hại cho nền kinh tế toàn cầu. Ngay cả trong mối quan hệ tốt nhất giữa Mỹ và Trung Quốc, việc đưa ra một ứng phó chung nhất quán đối với COVID-19 vẫn là thách thức lớn. Thật không may, đại dịch đang làm trầm trọng thêm sự cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc, gia tăng sự ngờ vực, thói chơi trên cơ và đổ lỗi lẫn nhau. Mối quan hệ Mỹ - Trung chắc chắn sẽ còn tồi tệ hơn, mà giờ đây có vẻ không thể tránh được, đó là đại dịch trở thành một vấn đề nghiêm trọng trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ. Chỉ còn hy vọng duy nhất đó là mức độ trầm trọng của khủng hoảng y tế sẽ khiến mọi người dồn sức đối phó và đi theo những những đường hướng thông thái hơn.

Trong khi đó, các nước châu Á khác bận rộn đương đầu với đại dịch và nhiều trở ngại khác để cải thiện cuộc sống của người dân và tạo ra một môi trường an toàn và thịnh vượng hơn. Thành công của các nước này và triển vọng của một thế kỷ châu Á phụ thuộc rất lớn vào việc Mỹ và Trung Quốc có thể vượt qua sự khác biệt, xây dựng niềm tin vào lẫn nhau và làm những việc mang tính xây dựng để duy trì trật tự quốc tế ổn định và hòa bình. Đây là một vấn đề cơ bản trong thời đại ngày nay.

Thế kỷ châu Á lâm nguy (Phần 1)

Theo Foreign Affairs (Tạp chí Nhà Quản Lý biên dịch)

caodung
Bạn đang đọc bài viết "Thế kỷ châu Á lâm nguy (Phần 2)" tại chuyên mục Khoa học quản lý.